THÔNG TIN XUẤT BẢN
ISBN: 978-632-621-527-4 | Giá bìa: 299.000VNĐ |
Barcode: 8935270705213 | Trọng lượng: |
Số trang: 516 | NXB: Tri thức |
Khổ: 16x24 cm | Năm XB: 2025 |
Loại bìa: Bìa mềm, tay gấp |
NỘI DUNG CHÍNH
“6 vật liệu định hình văn minh nhân loại” - Lịch sử, hiện tại và tương lai nhân loại qua lăng kính cát, muối, sắt, đồng, dầu và lithium.
Trong lịch sử loài người, người ta thường kể về các vị vua, những nhà tư tưởng, các cuộc cách mạng hay hệ thống thể chế chính trị. Nhưng Ed Conway – nhà báo kinh tế kỳ cựu của Sky News – lại chọn một cách nhìn hoàn toàn khác trong cuốn sách “6 vật liệu định hình văn minh nhân loại: Lịch sử của cát, muối, sắt, đồng, dầu mỏ và lithium”. Thay vì đặt con người ở trung tâm, ông kể lại lịch sử từ góc nhìn của sáu vật liệu tưởng chừng bình thường nhưng thực ra là nền móng của toàn bộ văn minh nhân loại. Cuốn sách từng được đề cử giải Sách phi hư cấu của Viện Hàn lâm Anh năm 2004.
Việc lấy vật liệu làm chủ đề chính có vẻ lạ lẫm, bởi hầu hết câu chuyện về tiến bộ nhân loại đều xoay quanh yếu tố con người. Nhưng Conway đặt ra những câu hỏi khác: tại sao một số quốc gia thịnh vượng, số khác thì thất bại? Tại sao Cách mạng Công nghiệp bùng nổ ở Anh mà không phải ở Ethiopia? Câu trả lời, theo ông, không chỉ nằm ở DNA hay thể chế chính trị, mà còn ở những gì con người khai thác từ lòng đất và biến đổi để phục vụ mục đích sống còn.
Từ thời Đồ đá, Đồ đồng, Đồ sắt cho đến ngày nay, sự phụ thuộc ấy chưa từng giảm bớt, thậm chí còn bùng nổ. Với cát, sắt, đồng, muối, dầu mỏ và lithium – những chất liệu đang vận hành thế giới từ chiếc điện thoại, nền móng bê tông đến năng lượng sạch – đã đến lúc chúng bước ra ánh sáng để kể lại lịch sử loài người dưới góc nhìn riêng.
Cuốn sách gồm 18 chương, chia thành 6 phần tương ứng với 6 vật liệu: Cát, Muối, Sắt, Đồng, Dầu và Lithium. Mỗi chương không chỉ kể lịch sử của vật liệu, mà còn lý giải vì sao chính chúng – chứ không phải những nguyên tố khác – đã trở thành nền tảng của văn minh hiện đại. Câu trả lời nằm ở tính phổ biến, độ bền và mức độ khó thay thế: thiếu chúng, thế giới của chúng ta khó có thể tồn tại.
Đặc biệt, ở phần cuối, Ed Conway đưa độc giả tới một viễn cảnh đầy hứa hẹn, nơi nhân loại có thể duy trì sự phát triển mà không cần đào sâu vào lòng đất, song đồng thời ông cũng cảnh báo những thách thức mới. Việc phụ thuộc vào lithium, đồng hay các kim loại hiếm để chuyển đổi năng lượng sẽ không chỉ tạo ra các “điểm nghẽn” trong chuỗi cung ứng toàn cầu mà còn tiềm ẩn nguy cơ xung đột địa chính trị, đặt nhân loại trước những câu hỏi lớn về đạo đức và sự bền vững.
Với lối viết kết hợp giữa kinh tế học, khoa học, lịch sử và phóng sự thực tế, Ed Conway đã biến một đề tài tưởng chừng khô khan thành một hành trình đọc đầy hấp dẫn. Những phân tích chặt chẽ, những câu chuyện đời thường từ các mỏ muối, nhà máy thép, giàn khoan dầu hay dây chuyền sản xuất pin khiến cuốn sách sống động như một cuộc phóng sự toàn cầu. Nhưng quan trọng hơn, “6 vật liệu định hình văn minh nhân loại” không chỉ kể lại lịch sử – nó còn là lời nhắc nhở rằng sự thịnh vượng ở hiện tại sẽ luôn đi kèm trách nhiệm ở tương lai.
Sách thuộc Tủ sách Lịch sử thế giới của Omega Plus.
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Ed Conway (sinh năm 1979)
Tác giả sách và phát thanh viên người Anh. ông cũng là biên tập viên về Kinh tế và Dữ liệu của Sky News và là cây bút thường xuyên của The Times và Sunday Times. Với khả năng biến các chủ đề kinh tế và tài chính phức tạp thành những câu chuyện dễ hiểu và hấp dẫn cho công chúng, ông đã được trao nhiều giải thưởng báo chí uy tín, bao gồm giải Nhà báo của năm của Quỹ Wincott – giải thưởng danh giá nhất trong lĩnh vực báo chí tài chính Anh. 6 vật liệu định hình văn minh nhân loại đã trở thành sách bán chạy theo Sunday Times, được đề cử Giải thưởng Sách của Viện Hàn lâm Anh năm 2024, hạng mục sách phi hư cấu dành cho độc giả đại chúng. Hiện ông sống ở London.
www.edmundconway.com
ĐÁNH GIÁ/NHẬN XÉT CHUYÊN GIA
Từ các chuyên gia và nhà báo:
- Tim Marshall (Tác giả cuốn Những tù nhân của địa lý): "Một câu chuyện hấp dẫn về lịch sử nhân loại."
- Peter Frankopan (Tác giả cuốn Trái đất chuyển mình): "Sống động, phong phú và thú vị... đầy những bất ngờ. Cuốn sách nhấn mạnh rằng để hiểu địa chính trị toàn cầu, bạn cần phải hiểu tài nguyên thiên nhiên và địa chất."
- Tim Harford (Tác giả sách bán chạy): "Hấp dẫn, thú vị và cực kỳ quan trọng. Một khám phá tuyệt vời về thế giới mà chúng ta đã xây dựng nhưng bằng cách nào đó lại chẳng để ý tới."
- Matthew Parris (Nhà báo): "Một lời giải thích lôi cuốn về một thế giới mà bạn không ngờ rằng cần được giải thích. Sau khi đọc, chúng ta sẽ bối rối rằng tại sao trước đây chưa ai từng nghĩ đến việc viết nó."
- Andrew Hill (Financial Times): "Một sự tôn vinh đầy bất ngờ đối với sự khéo léo của con người."
Từ độc giả trên Goodreads và các diễn đàn sách:
- "Một cuốn sách được nghiên cứu kỹ lưỡng và lôi cuốn về các vật liệu hiện đại vận hành thế giới và nền địa chính trị kiểm soát chúng. Đây là một tác phẩm cực kỳ đáng đọc và tôi khuyên bạn nên đọc nó ngay lập tức. Nếu bạn nghĩ chủ đề này có vẻ nhàm chán, hãy cầm nó lên vì đây là cuốn sách không hề nhàm chán chút nào."
- "Đây có lẽ là cuốn sách hay nhất tôi từng đọc trong năm nay. Nó nói về tầm quan trọng của sáu loại vật chất, cách chúng ta khai thác chúng và các quốc gia phụ thuộc vào nhau như thế nào đối với các nguyên liệu thô cơ bản."
- "Tôi đã học được rất nhiều và giờ đây có thể nhìn thế giới rộng hơn một chút. Tôi đã đọc ở thư viện và sau đó mua một cuốn để đọc lại."
TRÍCH ĐOẠN/ CÂU QUOTE HAY
Trích từ tr 54:
“NẠN ĐÓI” THỦY TINH
Mùa hè năm 1915. Quân Đồng minh đang mắc kẹt trong cuộc chiến chiến hào với quân Đức trên Mặt trận phía Tây. Xa hơn về phía nam, ở Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ, quân đội Anh và Anzac đang vất vả trong nỗ lực giành quyền kiểm soát eo biển Dardanelles. Giữa lúc giao tranh ác liệt, một đặc vụ bí mật được Bộ Quân khí ở London cử đến Thụy Sĩ. Nhiệm vụ của anh ta là kiếm được một lô hàng chứa một trong những công nghệ quân sự cần thiết nhất đối với kho vũ khí của Anh: ống nhòm dã chiến. Trong thời đại ngày nay, khi bất kỳ ai cũng có thể dễ dàng đặt mua một chiếc ống nhòm rẻ tiền và nhận được vào ngày hôm sau, thật khó tin rằng ưu thế quân sự từng phụ thuộc vào sự sẵn có của những công cụ tưởng như tầm thường như thế này. Nhưng suốt phần lớn thế kỷ 20, chúng là đại diện cho công nghệ tiên tiến nhất. Và, như chúng ta sẽ thấy ngay sau đây, ở một số khía cạnh, điều đó vẫn đúng. Nhưng vào năm 1915, chắc chắn chúng đã là như vậy. Hầu hết những cuộc chiến trước đây thường diễn ra ở khoảng cách gần. Súng và pháo được nhắm bắn chủ yếu bằng mắt thường vì tầm bắn của chúng thường khá ngắn. Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ 20, vũ khí đã phát triển đến mức đạn pháo có thể được bắn đi hàng chục cây số, khiến các thiết bị quang học đo cự ly trở thành thứ cực kỳ thiết yếu. Những khẩu pháo lớn nhất chỉ thực sự hiệu quả nếu chúng có thể được ngắm bắn chính xác. Quân đội có lợi thế là những đội quân sở hữu đủ ống nhòm để giúp binh lính quan sát đường chân trời từ chiến hào và trên mặt biển, cùng với những tay bắn tỉa xuất sắc được trang bị súng trường mạnh mẽ nhất với kính ngắm viễn vọng xa nhất. Năm 1914, khi Thái tử Franz Ferdinand của Áo và vợ bị ám sát, dẫn đến chuỗi sự kiện kích hoạt chiến tranh, không ai nghi ngờ rằng cán cân ưu thế nghiêng về phía Đức. Trong những thập niên trước đó, Đức đã đạt được vị thế độc quyền toàn cầu về nguồn cung cấp quang học chính xác – từ ống nhòm, kính viễn vọng, kính tiềm vọng đến các thiết bị đo cự ly, cùng hàng loạt thấu kính khoa học khác. Đây không chỉ là một vấn đề học thuật hay kinh tế. Việc Đức chi phối hoàn toàn thị trường kính ngắm súng trường khiến các tay bắn tỉa của họ có lợi thế vượt trội ngay từ đầu cuộc chiến. Quân Đồng minh thường xuyên bị khủng bố bởi các tay bắn tỉa Đức, những người dường như bất chấp các quy luật vật lý khi hạ gục mục tiêu từ khoảng cách rất xa. Tên thương hiệu được khắc bên cạnh gần như tất cả các kính ngắm súng trường đó là Zeiss, và thủy tinh bên trong chúng được cung cấp bởi một công ty khác: Schott. Otto Schott là một nhà hóa học người Đức, người đã dành phần lớn cuộc đời mình để thử nghiệm các phương pháp cải tiến thủy tinh bằng cách thêm từng nguyên tố từ bảng tuần hoàn vào hỗn hợp nóng chảy để xem chúng tạo ra những hiệu ứng gì. Chính Schott là người phát minh ra thủy tinh bosilicat – loại thủy tinh mà chúng ta vẫn sử dụng ngày nay trong các dụng cụ nấu nướng và các ống lọ được dùng để vận chuyển vaccine COVID-19. Schott, Carl Zeiss và nhà khoa học Ernst Abbe, những người cùng làm việc với nhau tại thị trấn Jena thuộc bang Thuringia, ngày nay được coi là những nhân vật then chốt trong lĩnh vực sản xuất thủy tinh chính xác. Tính tới năm 1914, Anh phụ thuộc vào Đức, hay chính xác hơn là Zeiss, để có được khoảng 60% lượng thủy tinh quang học chính xác mà mình cần (Pháp cung cấp thêm 30% và chỉ 10% còn lại đến từ các công ty trong nước, đứng đầu là Chance Brothers ở Smethwick thuộc West Midlands). Tháng 6 năm đó, ngay trước vụ ám sát thái tử Franz Ferdinand, Hội Khoa học Anh (British Science Guild) đã viết:
Nước Anh đã tụt hậu rất xa trong việc phát triển ngành sản xuất quang học đến mức không chỉ không thể đáp ứng các yêu cầu khoa học và công nghiệp, mà vào thời điểm hiện tại, nếu không có sự trợ giúp thì chúng ta cũng không thể sản xuất đủ số lượng các thiết bị quang học phục vụ cho Lục quân và Hải quân – những thiết bị rất quan trọng trong chiến tranh hiện đại.8 Khi chiến tranh chính thức nổ ra, nguồn cung từ Đức lập tức bị cắt đứt. Nhu cầu của Pháp dành cho binh sĩ của chính họ cũng khiến việc xuất khẩu bị hạn chế, đẩy quân đội Anh vào tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng. Tháng 9 năm 1914, một trong những nhân vật hàng đầu của Lục quân Anh, Thống chế Frederick Sleigh Roberts, đã đưa ra một “lời khẩn cầu” tới công chúng, yêu cầu họ quyên góp bất kỳ ống nhòm, kính xem hát opera hay kính viễn vọng nào mà họ có trong nhà cho binh lính đang chuẩn bị ra chiến trường. Chỉ trong vài tuần, hơn 2.000 chiếc đã được quyên góp, trong đó có bốn cặp kính mỗi người từ nhà vua và vương hậu. Đây là một cử chỉ cao đẹp nhưng con số này vẫn còn cách rất xa so với hàng chục nghìn, thậm chí hàng trăm nghìn chiếc mà quân đội cần. Khi mùa thu chuyển sang mùa đông và sau đó là mùa xuân, các tờ báo liên tục đăng tải những quảng cáo ảm đạm cùng những lời kêu gọi từ các binh sĩ trên đường ra chiến tuyến, mong nhận được ống nhòm dã chiến. Một số người gọi đây là “nạn đói thủy tinh” – một ví dụ nghiêm trọng về hậu quả khi một quốc gia chiếm ưu thế gần như độc quyền trong một ngành công nghiệp nhất định, cụ thể ở trường hợp này là từ những hạt cát. Mặc dù có nhiều công ty Anh có khả năng lắp ráp ống nhòm nhưng tất cả đều phụ thuộc vào thủy tinh nhập khẩu từ Đức.
Điều này đưa chúng ta trở lại năm 1915 và người đặc vụ bí mật được Bộ Quân khí cử đến nước Thụy Sĩ trung lập. Tại sao phải giữ bí mật? Vì anh ta được giao một nhiệm vụ cực kỳ đặc biệt. Theo tài liệu lịch sử chính thức từ Bộ, nhiệm vụ của anh ta là mua ống nhòm từ chính quốc gia mà Anh đang chiến đấu:
Những cuộc điều tra sơ bộ đã đi đến kết luận rằng quốc gia duy nhất có thể cung cấp các thiết bị quang học với số lượng lớn là Đức, và để tránh tình trạng thiếu hụt trong nguồn cung cấp những thiết bị thiết yếu này, một đại diện của Bộ Quân khí đã được cử đến Thụy Sĩ vào tháng 8 năm 1915 để xác minh xem có thể mua các thiết bị từ các nguồn cung cấp của Đức hay không.
Điều duy nhất đáng kinh ngạc hơn việc người Anh yêu cầu người Đức giúp đỡ chính là những gì xảy ra tiếp theo: người Đức đã đồng ý.
“Thông qua các kênh trung gian ở Thụy Sĩ, với nhưng thông tin nhận được từ phía Đức, người ta xác nhận rằng Bộ Chiến tranh Đức sẵn sàng để chính phủ Anh nhận được số lượng ống nhòm sau đây,” tài liệu chính thức ghi lại: 32.000 chiếc ống nhòm ngay lập tức, 15.000 chiếc mỗi tháng trong tương lai – số lượng này đủ để giải quyết gần như toàn bộ tình trạng thiếu hụt của Anh. Và không chỉ vậy, người Đức còn đề nghị cung cấp 500 kính ngắm súng trường và thêm từ 5.000 đến 10.000 chiếc ống ngắm mỗi tháng. “Để lấy được mẫu các thiết bị này,” bản ghi chép tiếp tục, với một chút hài hước, “người ta đề xuất rằng quân Anh có thể kiểm tra thiết bị của các sĩ quan và pháo binh Đức bị bắt giữ.”
Trích từ tr 145:
MUỐI VÀ QUYỀN LỰC
Hiểu được lịch sử của muối không chỉ giúp ta nắm rõ nguồn gốc của thương mại và kinh tế mà còn giúp ta hiểu bản chất của quyền lực và sự chuyên chế. Từ khi có những người cai trị, họ đã tìm cách kiểm soát muối, điều tiết và đánh thuế muối để củng cố quyền lực. Và không quốc gia nào thể hiện điều này rõ ràng hơn Trung Quốc.
Trung Quốc đã trải qua 13 triều đại lớn với vô số vị hoàng đế, có những triều đại kéo dài hàng trăm năm và những hệ tư tưởng khác nhau, từ chế độ phong kiến đến chủ nghĩa cộng sản. Nhưng xuyên suốt lịch sử lâu đời của đất nước này, có một yếu tố thể chế không đổi, một sợi dây liên kết tất cả: độc quyền muối. Nguyên tắc rằng chính quyền nên kiểm soát và đánh thuế thương mại muối có thể được truy nguyên từ tận thế kỷ 7 TCN, trước cả triều đại nhà Hán, trước khi Vạn Lý Trường Thành được xây, trước cả Đế chế La Mã, Alexander Đại đế, Plato hay Aristotle. Mười lăm thế kỷ trước khi Machiavelli viết Il Principe (Quân vương), Trung Quốc đã có Guanzi (Quản Tử) – có thể coi là công trình lớn đầu tiên về chính trị thực dụng – và một phần trong đó chính là về muối.
“Nếu đánh thuế thân lên tất cả người lớn và trẻ em, thần dân chắc chắn sẽ than phiền và phản đối,” tài liệu viết, được cho là lời của Quản Trọng, vị tể tướng dưới trướng Tề Hoàn Công nước Tề – một trong những nước thời Xuân Thu của Trung Quốc cổ đại. “Nhưng,” ông tiếp tục, “nếu áp dụng thuế muối, tiền thuế thu về sẽ gấp trăm lần, mà dân chúng lại không thể trốn được. Đây chính là cách quản lý tài chính.”
Nói cách khác, phỏng theo ý của Frank Herbert trong Dune (Xứ Cát): Ai kiểm soát muối, người đó kiểm soát cả thế gian. Và các hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc đã lắng nghe lời khuyên này. Họ huy động nhân lực để sản xuất muối, quy định tất cả mọi thứ từ kích thước của chảo bay hơi đến sản lượng hằng ngày, kiểm soát phân phối trên toàn đế chế và điều tiết việc bán cho dân chúng. Và vì nhà nước độc quyền toàn bộ quy trình, họ có thể bán sản phẩm cuối cùng với giá cao hơn rất nhiều so với chi phí sản xuất, từ đó thu được nguồn lợi khổng lồ. Đến thế kỷ 3 CN, doanh thu từ muối chiếm gần 90% tổng thu nhập của nhà nước.4 Nhưng muối không chỉ quan trọng về mặt tài chính – vì nó quá quý giá, quá thiết yếu cho dinh dưỡng và y tế – mà còn làm nảy sinh những vấn đề chính trị sâu sắc hơn. Quyền lực bao nhiêu là quá nhiều? Vai trò của nhà nước kết thúc ở đâu, và quyền của công dân bắt đầu từ đâu? Liệu tự do cá nhân có quan trọng hơn an ninh quốc gia? Trong những trường hợp nào chính quyền trung ương nên can thiệp vào hoạt động kinh doanh tư nhân? Những câu hỏi này nghe có vẻ mang tính thời đại, nhưng thực ra chúng từng là chủ đề của một cuộc tranh luận tại triều đình Trung Hoa vào năm 81 TCN và được ghi chép lại trong một trong những tác phẩm quản trị nổi tiếng nhất thời cổ đại – Yán Tiě Lùn (Diêm Thiết Luận, nghĩa là Bàn về muối và sắt). Một phe trong cuộc tranh luận là những người theo chủ nghĩa duy tân, những người lập luận rằng độc quyền sản xuất muối và sắt là trụ cột tài chính quan trọng giúp duy trì quân đội và bảo vệ nhà nước. Phe còn lại là những nhà cải cách, môn đệ của Khổng Tử, những người kêu gọi bãi bỏ các chính sách kiểm soát tập trung này và đặt câu hỏi vì sao “nhà nước lại cạnh tranh với dân?” Ngay cả ngày nay, sau hơn 2.000 năm, vẫn chưa ai có thể khẳng định phe nào đã giành chiến thắng thực sự trong cuộc tranh luận đó. Độc quyền muối được duy trì thêm vài thập niên, sau đó bị bãi bỏ, rồi nhanh chóng được khôi phục trở lại.