Sự thịnh vượng của các quốc gia

Thương hiệu: Omega Plus Books
560.150₫ 659.000₫
-15%
(Tiết kiệm: 98.850₫)

Gọi đặt mua 0941212491 (8:00 - 17:00 T2 - T6)

  • Giao hàng toàn quốc
    Giao hàng toàn quốc
  • Đổi trả miễn phí trong vòng 7 ngày
    Đổi trả miễn phí trong vòng 7 ngày
Mô tả sản phẩm

THÔNG TIN XUẤT BẢN

ISBN: 978-632-604-303-7 Giá bìa: 659.000VNĐ
Barcode: 8935270705466 Trọng lượng:
Số trang: 1080 NXB: Thế giới
Khổ: 16 x 24cm Năm XB: 2025
Loại bìa: Bìa cứng, áo ôm

 

NỘI DUNG CHÍNH

“Sự thịnh vượng của các quốc gia” của Adam Smith là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong kinh tế học, đặt nền móng cho kinh tế học hiện đại. Cuốn sách đưa ra nhiều khái niệm/phân tích căn bản, phù hợp với mọi thời đại và vẫn giữ nguyên giá trị sau 250 năm ra mắt.

Trong lịch sử tư tưởng kinh tế, hiếm có tác phẩm nào để lại ảnh hưởng sâu rộng như “An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations” (Một truy vấn về bản chất và nguyên nhân của sự thịnh vượng của các quốc gia), thường được gọi tắt là “The Wealth of Nations” (Sự thịnh vượng của các quốc gia). 

Cuốn sách này được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1776 và nhanh chóng trở thành một cột mốc trong sự hình thành kinh tế học cổ điển. Tác giả, nhà triết học và kinh tế học người Scotland Adam Smith, không chỉ đưa ra một hệ thống lý luận kinh tế mới mẻ mà còn cung cấp một cách nhìn toàn diện về nguồn gốc sự thịnh vượng, về vai trò của thị trường, nhà nước và xã hội trong tiến trình phát triển.

Cuốn sách ra mắt khi châu Âu đang bước vào Cách mạng công nghiệp, với sự ra đời của máy móc, công xưởng và phương thức sản xuất mới. Các tuyến thương mại quốc tế mở rộng chưa từng có, kết nối châu Âu với châu Mỹ, châu Á và châu Phi. Trong khi đó, các chính sách kinh tế phổ biến vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa trọng thương.

Chủ nghĩa trọng thương cho rằng sự thịnh vượng của quốc gia gắn liền với lượng vàng bạc tích trữ được. Do đó, nhà nước cần áp đặt nhiều biện pháp can thiệp như đánh thuế nặng vào hàng nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ công nghiệp trong nước, và duy trì thặng dư thương mại bằng mọi giá. Tuy nhiên, trong thực tế, những chính sách này không phải lúc nào cũng thúc đẩy thịnh vượng mà đôi khi còn gây ra trì trệ và bất công.

Adam Smith quan sát đời sống kinh tế và đặt câu hỏi: đâu mới là cội nguồn thực sự của sự thịnh vượng? Bộ sách đưa ra câu trả lời như sau: Sự thịnh vượng đến từ khả năng sản xuất và trao đổi hàng hóa, dựa trên sức lao động của con người.

VỀ BẢN DỊCH

Bản dịch này của Omega+ được thực hiện dựa trên ấn bản "An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations" năm 1789, là lần tái bản thứ năm, cũng là lần cuối cùng tác phẩm được tái bản khi Adam Smith còn sống. 

Một số ấn bản và bản dịch hiện đại của cuốn sách được thực hiện dựa trên ấn bản này, chẳng hạn như ấn bản tiếng Anh do Edwin Cannan biên tập (1904) – là cơ sở cho nhiều ấn bản hiện đại khác sau này – và bản tiếng Đức do Horst Claus Recktenwald dịch và biên tập (1974). Việc dựa vào ấn bản này giúp độc giả Việt Nam tiếp cận một văn bản có độ tin cậy cao và mang giá trị học thuật trọn vẹn.

Quyển I do Dịch giả Minh An chuyển ngữ; Quyển II do TS Phan Thị Thanh Huyền chuyển ngữ; bản dịch Quyển III và Quyển V là của TS Nguyễn Hoàng Giang; riêng Quyển IV là kết quả của sự hợp tác giữa TS Nguyễn Hoàng Giang và TS Phan Thị Thanh Huyền. 

Về tổng thể, bản dịch tuân thủ nguyên tắc bám sát nguyên tác, nhưng cũng chú ý đến khả năng tiếp nhận của độc giả hiện đại, cụ thể: Các khái niệm then chốt được dịch thống nhất và – 9 phù hợp với bối cảnh hiện đại; với những thuật ngữ chưa có bản dịch chuẩn hoặc dễ gây tranh cãi, bản dịch cung cấp từ gốc tiếng Anh; các câu dài trong nguyên tác được giữ nguyên cấu trúc khi có thể, nhưng đôi khi được phân chia lại để người đọc dễ tiếp cận hơn

BỐ CỤC CUỐN SÁCH:

“Sự thịnh vượng của các quốc gia” được chia thành năm quyển, mỗi quyển tập trung vào một chủ đề lớn có liên hệ chặt chẽ với nhau.

Quyển I: Về sức lao động. Ở phần mở đầu, Smith nhấn mạnh vai trò then chốt của phân công lao động. Ông đưa ra ví dụ nổi tiếng về xưởng sản xuất đinh ghim: nếu một công nhân làm tất cả các công đoạn, họ có thể chỉ làm ra vài chiếc đinh ghim mỗi ngày; nhưng nếu công việc được chia nhỏ và mỗi công nhân chuyên môn hóa vào một khâu, thì cả nhóm có thể sản xuất hàng nghìn chiếc.

Theo Smith, chính phân công lao động đã tạo ra bước nhảy vọt về năng suất lao đông, từ đó làm gia tăng của cải. Tuy nhiên, mức độ phân công phụ thuộc vào quy mô thị trường. Thị trường càng mở rộng thì phân công càng sâu, và năng suất càng tăng.

Trong quyển này, ông cũng bàn đến cơ chế giá trị, phân biệt giữa “giá trị sử dụng” và “giá trị trao đổi.” Ông coi lao động là thước đo cơ bản của giá trị, đặt nền móng cho lý thuyết giá trị lao động sau này. Đồng thời, Smith phân tích ba nguồn thu nhập chính của xã hội: tiền công lao đông, lợi nhuận và địa tô – sau này trở thành cốt lõi của kinh tế học cổ điển.

Quyển II: Về vốn. Trong Quyển II, Smith chuyển sang phân tích vốn. Vốn, theo Adam, gồm vốn phục vụ tiêu dùng trước mắt và vốn dùng để đầu tư sinh lời (gọi là tư bản). Tư bản được chia thành hai phần: tư bản “cố định” (máy móc, nhà xưởng, công cụ) và tư bản “lưu động” (nguyên liệu, tiền lương, hàng hóa tồn kho). Sự tích lũy vốn, theo ông, là chìa khóa mở rộng sản xuất, bởi vốn tạo điều kiện để lao động trở nên hiệu quả hơn.

Smith cũng nhấn mạnh vai trò của tiết kiệm và tái đầu tư. Thay vì tiêu dùng xa xỉ, việc tiết kiệm để tái sản xuất mới thực sự làm tăng của cải quốc gia. Ông dành nhiều phân tích cho hệ thống tín dụng, ngân hàng, và lưu thông tiền tệ – những yếu tố mới mẻ trong nền kinh tế đang chuyển mình sang thương nghiệp và công nghiệp.

Quyển III: Về tiến trình của sự thịnh vượng ở các quốc gia. Ở quyển này, Smith khảo sát sự phát triển của châu Âu sau sự sụp đổ của Đế chế La Mã, chỉ ra rằng sự thịnh vượng đã phát triển không đồng đều. Các thiết chế phong kiến, luật lệ bất hợp lý, đặc quyền và ràng buộc giai cấp đã kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp và thương mại.

Ông phân tích quá trình chuyển dịch từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp và thương nghiệp, đồng thời nhấn mạnh tính tự phát, không do kế hoạch hóa từ trên xuống, mà là kết quả của những động lực nội tại trong xã hội. Điều này phản ánh quan điểm rộng hơn của Smith về trật tự tự nhiên – rằng sự thịnh vượng phát triển tốt nhất khi các cá nhân được tự do theo đuổi lợi ích của mình.

Quyển IV: Về các hệ thống kinh tế chính trị khác nhau. Đây là phần mang tính phản biện nhiều nhất. Smith trực diện phê phán chủ nghĩa trọng thương, coi đó là một hệ thống tư tưởng sai lầm vì đồng nhất sự thịnh vượng với kim loại quý. Ông chỉ ra rằng thương mại quốc tế không phải là trò chơi có tổng bằng không, mà có thể đem lại lợi ích cho cả hai bên.

Ngoài trọng thương, Smith cũng phân tích và phê bình một số quan điểm của trường phái Trọng nông ở Pháp, dù ông đánh giá cao việc họ nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp. Tuy vậy, Smith cho rằng không nên coi chỉ nông nghiệp mới tạo ra giá trị, bởi công nghiệp và thương nghiệp cũng đóng góp vào sự gia tăng của cải.

Đặc biệt, ở phần này, Smith phát triển ý tưởng về tự do thương mại. Ông lập luận rằng khi thương mại được tự do, mỗi quốc gia sẽ chuyên môn hóa vào lĩnh vực có lợi thế của mình, và nhờ đó, hiệu quả chung được nâng cao. Đây chính là tiền đề cho lý thuyết lợi thế so sánh sau này.

Quyển V: Về vai trò và nhiệm vụ của nhà nước. Trái với cách hiểu giản đơn rằng Smith chỉ tin vào “bàn tay vô hình” và muốn nhà nước đứng ngoài mọi can thiệp, quyển V cho thấy một quan điểm tinh tế hơn. Smith thừa nhận rằng thị trường tự do là cơ chế quan trọng, nhưng nhà nước vẫn có những vai trò không thể thiếu.

Ông chỉ ra ba chức năng cơ bản của chính quyền: bảo vệ quốc gia khỏi ngoại xâm (quốc phòng), duy trì công lý và pháp luật (tư pháp), và xây dựng các hạ tầng công cộng mà tư nhân không có khả năng hoặc động cơ để thực hiện. Những gợi ý này cho thấy Smith đã đặt nền móng cho khái niệm “lợi ích chung” (common good) trong kinh tế học hiện đại.

Với "Sự thịnh vượng của các quốc gia", Adam Smith đã tách kinh tế học khỏi triết học đạo đức và chính trị học để hình thành một ngành khoa học độc lập. Những khái niệm, phương pháp và khung phân tích ông đưa ra tạo tiền đề cho các nhà kinh tế học sau này như David Ricardo, Thomas Malthus, John Stuart Mill.

Ngoài ra, tác phẩm cũng mở ra cuộc đối thoại lâu dài trong khoa học xã hội: mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa tự do và công bằng, giữa thị trường và nhà nước. Ngay cả khi nhiều luận điểm của Smith đã được điều chỉnh, bổ sung hoặc phê phán bởi các trường phái kinh tế sau này thì di sản của ông vẫn là điểm khởi đầu không thể bỏ qua.

"Sự thịnh vượng của các quốc gia" không chỉ là một công trình kinh tế học, mà còn là một bản tuyên ngôn tư tưởng, phản ánh khát vọng lý giải trật tự xã hội bằng những nguyên lý phổ quát. Adam Smith đã chỉ ra rằng cội nguồn của sự thịnh vượng không nằm ở kho báu hay chính sách can thiệp áp đặt, mà ở năng suất lao động, ở sự tự do trao đổi, và ở khả năng tổ chức xã hội dựa trên luật pháp công bằng.

Hơn hai thế kỷ trôi qua, tác phẩm vẫn còn nguyên sức sống: nhiều nguyên lý được giảng dạy trong các khóa kinh tế nhập môn, nhiều khái niệm vẫn là nền tảng của tư duy chính sách. Dù thế giới ngày nay phức tạp hơn nhiều so với thế kỷ 18, Sự thịnh vượng của các quốc gia vẫn nhắc nhở chúng ta rằng để hiểu về kinh tế, cần bắt đầu từ những nguyên lý cơ bản nhất như lao động, thị trường, trật tự xã hội... 

Chính vì vậy, tác phẩm này mãi là một di sản tư tưởng trường tồn, xứng đáng được coi là nền móng của kinh tế học hiện đại.

Cuốn sách thuộc Tủ sách Kinh điển kinh tế học của Omega Plus.

THÔNG TIN TÁC GIẢ

Adam Smith (1723-1790)

Nhà triết học đạo đức, nhà kinh tế học lỗi lạc người Scotland, được coi là cha đẻ của kinh tế học hiện đại. Ông là nhà tư tưởng quan trọng của Thời kỳ Khai sáng, với những đóng góp sâu sắc góp phần định hình nền tảng cho tư duy kinh tế chính trị. Cho đến nay, tư tưởng của ông có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều lĩnh vực như kinh tế học, triết học, chính trị và xã hội học. Ngoài Sự thịnh vượng của các quốc gia, ông còn là tác giả của The theory of moral sentiments – một tác phẩm triết học quan trọng.

TRÍCH ĐOẠN/ CÂU QUOTE HAY

“Sự cải thiện lớn nhất về năng suất lao động, cùng với phần lớn kỹ năng, sự khéo léo và óc đánh giá mà với đó sức lao động được sử dụng hoặc định hướng ở bất kỳ đâu, dường như là hệ quả của phân công lao động.

Những hệ quả của phân công lao động, trong hoạt động sản xuất chung của xã hội, sẽ được hiểu dễ dàng hơn bằng cách xem xét phương thức hoạt động của nó trong một số ngành sản xuất cụ thể. Người ta thường cho là phân công lao động được tiến hành kỹ lưỡng nhất trong một số ngành nghề nhỏ lẻ; có lẽ không phải vì nó được áp dụng kỹ lưỡng hơn so với trong các ngành nghề quan trọng, mà vì ở những ngành sản xuất nhỏ, vốn nhắm tới việc thỏa mãn nhu cầu nhỏ của một số ít người, đương nhiên tổng số nhân công là không lớn; và mọi nhân công tham gia vào mọi công đoạn sản xuất khác nhau thường tập trung trong cùng một phân xưởng dưới sự giám sát của cùng một quản đốc. Ngược lại, ở những ngành sản xuất quy mô lớn nhằm thỏa mãn nhu cầu lớn của nhiều người, mỗi công đoạn sản xuất đều sử dụng một số lượng nhân công lớn đến mức không thể tập hợp vào cùng một phân xưởng. Chúng ta hiếm khi thấy được cùng lúc nhiều công nhân hơn so với số người được sử dụng trong một công đoạn sản xuất riêng lẻ. Do đó, mặc dù trong các ngành sản xuất lớn như vậy, công việc thực ra có thể được chia thành nhiều công đoạn hơn rất nhiều so với ở các ngành sản xuất nhỏ, nhưng sự phân chia không quá rõ ràng và do đó cũng khó quan sát thấy hơn.”

“Chính sự gia tăng mạnh trong sản lượng của các ngành nghề khác nhau nhờ phân công lao động đã tạo điều kiện để ngay cả những người ở tầng lớp thấp nhất cũng được lợi từ sự giàu có chung trong một xã hội được tổ chức và quản lý tốt. Mỗi người lao động đều làm ra một khối lượng sản phẩm lớn nằm ngoài nhu cầu cá nhân của anh ta để có thể bán đi; và khi người khác cũng như vậy, anh ta có thể trao đổi một lượng lớn hàng hóa của mình để lấy về một lượng lớn hàng hóa của người khác, hoặc cũng có nghĩa là để lấy về những gì tương đương với giá của một lượng lớn hàng hóa của người khác. Anh ta cung cấp cho họ những gì họ cần một cách dồi dào, họ cũng cung cấp những thứ anh ta cần với sự dồi dào tương tự, và từ đó một sự dồi dào chung sẽ tự phân tán trên khắp các tầng lớp xã hội khác nhau.” 

“Chính việc thỏa thuận, trao đổi và mua bán giúp chúng ta có được từ người khác phần lớn những sự giúp đỡ qua lại mà chúng ta cần, và cũng chính khuynh hướng trao đổi này đã tạo ra phân công lao động. Chẳng hạn, trong một bộ lạc săn bắt hoặc chăn nuôi, một người cụ thể làm cung tên với sự nhanh nhẹn và khéo léo hơn bất kỳ ai khác. Anh ta trao đổi cung tên lấy gia súc hoặc thịt thú rừng của bạn đồng hành; và cuối cùng nhận thấy theo cách này, anh ta có thể có được nhiều gia súc và thịt thú rừng hơn so với việc tự mình bắt chúng. Do vậy, để có lợi hơn cho bản thân, làm cung tên dần trở thành công việc chính, và anh ta trở thành một dạng thợ sản xuất vũ khí. Một người khác rất thạo làm khung và mái cho những túp lều nhỏ hoặc nhà di động. Anh ta quen giúp đỡ hàng xóm theo cách này, và họ đền đáp anh ta bằng gia súc và thịt thú rừng, cho đến khi anh ta thấy rằng dành toàn bộ tâm huyết cho công việc này và trở thành thợ mộc dựng nhà sẽ có lợi hơn. Theo cách tương tự, người thứ ba trở thành thợ rèn hoặc thợ hàn; người thứ tư trở thành thợ thuộc da, nguyên liệu chính làm ra quần áo cho người cổ đại. Và chính việc chắc chắn có thể trao đổi toàn bộ phần thành quả lao động thặng dư vượt quá mức tiêu thụ của chính mình để lấy những phần thành quả lao động của người khác khi có dịp, đã khuyến khích mọi người theo đuổi một công việc cụ thể, trau dồi và hoàn thiện bất kỳ tài năng hoặc thiên tư nào mà anh ta có thể sở hữu cho loại hình công việc cụ thể đó.”

“Khi phân công lao động đã được thiết lập triệt để, thì sản phẩm lao động của một người chỉ có thể đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu cầu của chính anh ta. Anh ta sẽ đáp ứng được một phần nhu cầu lớn hơn nhiều bằng cách trao đổi phần thặng dư trong sản phẩm lao động của bản thân, vốn vượt quá mức tiêu dùng cá nhân, để đổi lấy phần sản phẩm lao động thặng dư của người khác. Do vậy, mỗi người sống bằng cách trao đổi, hoặc trở thành thương nhân theo một cách nào đó, và bản thân xã hội phát triển thành một xã hội thương mại đúng nghĩa.

Nhưng khi phân công lao động mới khởi phát, khả năng trao đổi này hẳn thường xuyên bị cản trở và gặp khó khăn trong quá trình vận hành. Giả sử một người có nhiều hàng hóa hơn mức tiêu dùng cá nhân, trong khi người khác có ít hơn. Kết quả là người thứ nhất sẽ rất vui vẻ bán đi; và người thứ hai sẽ rất vui vẻ mua về một phần trong lượng thặng dư ấy. Nhưng nếu người thứ hai không có thứ mà người thứ nhất cần, thì họ không thể trao đổi. Người bán thịt có nhiều thịt trong cửa hàng so với mức anh ta có thể tiêu thụ, còn người ủ rượu bia và làm bánh đều sẵn sàng mua một phần thịt. Nhưng họ chẳng có gì để trao đổi, ngoại trừ các sản phẩm khác nhau từ công việc tương ứng, trong khi người bán thịt đã có bánh mì và bia mà anh ta cần. Trong trường hợp này, họ không thể trao đổi gì cho nhau. Người bán thịt không thể bán hàng cho họ, họ cũng không phải là khách hàng của anh ta; và họ trở nên ít hữu ích hơn cho nhau. Để tránh sự bất tiện của những tình huống như vậy, mỗi người khôn ngoan trong mỗi thời kỳ xã hội, sau khi đã có phân công lao động, hẳn đều phải cố xoay xở theo cách mà bên cạnh sản phẩm đặc thù từ công việc cá nhân, anh ta luôn có một lượng nhất định hàng hóa này hay hàng hóa khác mà anh ta nghĩ rằng sẽ không ai từ chối nhận để đổi lấy sản phẩm của họ.”

“Ta cần nhận ra rằng từ “giá trị” có hai nghĩa khác nhau, đôi khi biểu thị công dụng của một số đồ vật cụ thể, và đôi khi là sức mua những hàng hóa khác mà việc sở hữu đồ vật đó mang lại. Nghĩa đầu tiên có thể được gọi là “giá trị sử dụng”; nghĩa thứ hai là “giá trị trao đổi”. Những thứ có giá trị sử dụng lớn nhất thường có ít hoặc không có giá trị trao đổi; và ngược lại, những thứ có giá trị trao đổi lớn nhất thường có rất ít hoặc không có giá trị sử dụng. Không có gì hữu ích hơn nước, nhưng nước hầu như lại chẳng mua được thứ gì và cũng khó mà đổi được thứ gì. Ngược lại, một viên kim cương chẳng có mấy giá trị sử dụng; nhưng thường cần một lượng rất lớn hàng hóa khác để đổi lấy nó.”