Hành trình của tiền tệ
Bích Ngọc
Thứ Sáu,
17/10/2025
19 phút đọc
Nội dung bài viết
Ngày nay tiền là một thứ không thể nào thiếu trong cuộc sống của mỗi người, từ người giàu đến người chưa giàu từ tỷ phú tới người bình thường không ai là không cần đến tiền. Nhưng thực sự thì tiền rốt cuộc là gì? Quay lại với những năm cuối 9x đầu 2000 bọn mình có một bài đồng dao để định nghĩa tiền khá hay như sau:
“Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của lò xo,
Là thước đo của lòng người,
Là tiếng cười của tuổi trẻ,
Là sức khỏe khi tuổi già,
Là cái đà cho danh vọng,
Là cái lọng che thân,
Là cán cân của công lý,
Tiền thật là hết ý.”
Bài đồng dao này thể hiện được hầu hết các tác động của đồng tiền đến cuộc sống của chúng ta, nhưng nó vẫn chưa trả lời được câu hỏi tiền là gì mà là tiền ai chấm? Để trả lời được câu hỏi này thì chúng ta phải làm một chuyến du hành về quá khứ, cụ thể là vào thuở sơ khai của con người. Khi mà con người vẫn còn săn bắt hái lượm, khi này các thanh viên trong bầy đàn mỗi người sẽ có một nhiệm vụ và trách nhiệm riêng. Và rồi cuối ngày họ sẽ chia sẻ hàng hóa kiếm được bằng một “hệ thống kinh tế” sơ khai đó là chịu ơn và trả ơn. Và cái mô hình kinh tế này vẫn được giữ nguyên cho đến tận khi cuộc cách mạng nông nghiệp diễn ra. Vì khi này mọi người vẫn chủ yếu sống theo những cộng đồng nhỏ gắn kết chặt chẽ với nhau, và mỗi bộ lạc nhỏ này là một đơn vị kinh tế tự cung tự cấp khép kín, được duy trì bằng việc chịu và trả ơn lẫn nhau.

Tuy nhiên, mô hình kinh tế này dần lung lay khi các cộng đồng dần trở nên phát triển và lớn mạnh cũng như dần có sự góp mặt của những người xa lạ tham gia vào thị trường. Và bùm thế là họ dần chuyển sang hình thức trao đổi hàng đổi hàng. Tuy nhiên, việc trao đổi này gặp rất nhiều bất cập khi phải cần đạt được “sự trùng hợp kép về yêu cầu”, hiểu đơn giản là cả 2 bên đều phải sở hữu thứ mà đối phương muốn thì giao dịch mới có thể diễn ra. Và có một câu chuyện kinh điển để giải thích cho việc này là:
Có một người chuyên trồng táo, với những trái táo tươi và ngọt nhất vùng. Và ông phải làm quần quật cả ngày ở trong vườn táo của mình đến mức mòn hết cả giày. Thế là ông bèn quyết định mang những trái táo tươi ngon nhất của mình để ra chợ đổi lấy một đôi ủng chắc chắn hơn. Tuy nhiên, khi mang táo đến để đổi với ông chuyên đóng giày, thì anh đóng giày lại không muốn ăn táo mà anh lại muốn ăn thịt bò. Thế là anh trồng táo phải đi kiếm một anh nuôi bò có nhu cầu ăn táo để có thể đổi táo lấy thịt bò và dùng thịt bò đấy để đổi lấy đổi giày.
Sự bế tắc này không chỉ là một sự bất tiện nhỏ. Smith lập luận rằng nó là một rào cản cơ bản, "làm tắc nghẽn và gây khó khăn" cho toàn bộ guồng máy kinh tế. Nó kìm hãm sự chuyên môn hóa, và nó giới hạn quy mô của thị trường và ngăn cản sự hình thành một xã hội thương mại phức tạp. Mọi người hãy thử tưởng tượng, nếu trên thị trường có 100 mặt hàng khác nhau như vậy thì người mua và bán sẽ cần phải nhớ tới 4.950 tỉ giá trao đổi khác nhau. Nghe thôi là thấy nhức nhức cái đầu rồi. Và thế là khi này những cái đầu có sạn của thời kỳ này đã tìm ra một giải pháp giúp giải quyết tất cả các vấn đề trên mang tên “vật ngang giá chung” và bùm tiền thân của tiền ra đời.
Nhưng khi này một vấn đề lớn hơn lại được đặt ra đó là sử dụng cái gì để làm vật ngang giá chung bây giờ? Ban đầu mọi người vẫn chọn những thứ thiết yếu để làm tiền như là: “lúa, muối, gia súc, vải vóc, mía đường,,…” Nói chung đại khái là những thứ có thể ăn được hoặc ít nhất là dùng được cho con người. Tuy nhiên mấy thứ này bị một cái bất cập là nó không bền và khó chia nhỏ giá trị. Vậy nên con người dần chuyển dịch qua xài những thứ bền hơn và dễ chia nhỏ giá trị hơn như vũng Lưỡng Hà hơn 5000 năm trước, người ta đã nung những mẩu đất sét nhỏ và bỏ vào những quá bóng đất sét rỗng rồi niêm phong lại để tượng trưng cho khoản nợ. Mỗi mẩu đất sét sẽ được nung những biểu tượng lên đó để tượng trưng cho sản phẩm nào đó. Sau này, để có thể biết được bên trong quả bóng có gì nên người lấy cuốn mấy cái mảnh đất sét nung có biểu tượng đó dán lên bề mặt của quả bóng. Và cuối cùng người ta biểu diễn khoản nợ bằng cách đánh dấu bên ngoài quả bóng luôn thay vì phải nhét đất nung vào bên trong. (Và đây cũng là tiền đề để chữ viết hay cụ thể là chữ số ra đời sau này)
Với cùng một nguyên lý tương tự thì các quốc gia sau này đã sử dụng những thứ không mấy hũu dụng để làm vật ngang giá chung như: “vỏ sò, ngọc trai, thuốc lá,…” Cho đến khoảng năm 600 TCN tại Lydia, một trong những quốc gia sử dụng kim loại electrum (một hợp kim của vàng-bạc) để làm tiền tệ đầu tiên trên thế giới. Nhưng mà mỗi lần muốn tính giá trị của khối electrum thì họ lại phải đo lường chính xác tỉ lệ vàng-bạc có trong quặng đó. Việc này rất mất công, và cũng như việc sử dụng các khối kim loại thô này rất bất cập. Thứ nhất là việc cân đo, và thứ hai là về chất lượng của các khối kim loại. Thế nên họ đã gom những khối electrum có cùng tỉ lệ vàng-bạc chỉa nhỏ ra thành các khối theo kích thước tiêu chuẩn và dập lên đó hình con sư tử. Và tiền xu đã được phát minh ra như thế. Sau này các nền văn minh khác chỉ đơn giản là sử dụng thứ kim loại phổ biến ở khu vực của họ để đúc thành tiền xu, đó là lý do tiền xu được làm bằng đồng, săt, bạc, vàng,..
Tiền xu thống trị thị trường cho đến tận năm 105 CN, khi này Thái Luân một quan thái giám của Trung Quốc đã phát năm ra giấy, cùng với sự xuất hiện của kỹ thuật in ấn vào trăm năm sau đó. Và đến năm 995 CN một thương gia Trung Quốc đã mở dịch vụ ký gửi tiền xu, và người gửi tiền sẽ nhận một tờ biên lai làm bằng giấy, bất kỳ ai có tờ giấy này đều có thể rút lại thành tiền xu, và cũng như tờ biên lai này hoàn toàn có thể được chuyển nhượng. Và với sự ra đời của những “tờ tiền giấy” này đã giúp cho Trung Quốc có một cuộc cách mạng kinh tế mạnh mẽ, ngày càng nhiều người rời bỏ nền kinh tế phong kiến (dựa trên cống nạp) sang nền kinh tế thị trường (dựa trên giao thương và tiền tệ). Điều này đã giúp cho Trung Quốc trở thành nền văn minh giàu có và có công nghệ tiến bộ nhất thế giới thời bấy giờ. Cho đến năm 1200 bị quân Mông Cổ tràn vào đánh chiếm, dần khiến cho tiền giấy biến mất trên bản đồ tiền tệ thế giới.
Phải cho đến tận thế kỷ 17 tại nước Anh, giới thợ kim hoàn nơi đây mới làm lại điều tương tự mà Trung Quốc đã làm từ tận thế kỷ 10. Nhưng họ đã tiến thêm một bước nữa trên con đường tiến tới tiền hiện đại của chúng ta ngày nay. Đó là cách để hô biến ra tiền từ hư không. Cụ thể là giới thợ kim hoàn bắt đầy cho vay tiền mà không cần phải gửi vàng thật nữa, bạn chỉ cần hứa sẽ trả đủ tiền vay kèm theo lãi suất là lụm. Thế là bạn sẽ nhận được tấm séc rút vàng có giá trị mua bán và trao đổi không khác gì tiền. Và đây chính là ngân hàng và thứ tiền tệ của chúng ta ngày nay.
Và xuyên suốt hành trình này mọi người cũng có thể thấy được gần bất cứ thứ gì cũng có thể là tiền đúng không? Từ vỏ sò tới thuốc lá cho tới cả những tờ giấy vô hồn mà ngày nay hầu hết chúng ta làm tất cả chỉ để cuối tháng nhận được nó. Theo như Harrari thì tiền là một thứ không có thật, miễn có đủ lượng người tin tưởng vào một thứ gì đó thì thứ đó sẽ là tiền. Hay nói cách khác tiền chính là niềm tin giữa người với người, giữa người với chính phủ. Vậy tại sao một thứ không có thật lại có thể đổi được một thứ có thật, và tại sao có cái lại cần nhiều thứ không có thật này hơn cái khác? Và tỉ giá trao đổi giữa tiền và hàng hóa của chúng ta ngày nay đến từ đâu mà có.
Vào thế kỷ 18 một nhà kinh tế học vĩ đại đã đưa ra những quy tắc xác định có thể được gọi là “giá trị sử dụng” và “giá trị trao đối” của hàng hóa, và không ai khác đó chính là Adam Smith. Một cái biểu thị công dụng của hàng hóa, và cái còn lại thì biểu thị sức mua những hàng hóa khác mà việc sở hữu vật đó mang lại. Và Adam Smith cũng chỉ ra một nghịc lý rằng những thứ có giá trị sử dụng lớn nhất thường có rất ít hoặc gần như không có giá trị trao đổi (ví dụ như là nước và kim cương). Vậy thước đo thực sự là gì? Đối với Smith, câu trả lời chính là lao động. Adam cho rằng: "Giá thực của mọi thứ, thứ mà mọi thứ thực sự tiêu tốn của người muốn có được nó, chính là công sức và sự phiền toái để có được nó". Theo quan điểm này, giá trị của một hàng hóa được quyết định bởi lượng lao động cần thiết để sản xuất ra nó. Tiền tệ, do đó, là một công cụ tiện lợi để đại diện và trao đổi lượng lao động đó. Trong mô hình của Smith, giá trị là một thứ khách quan, tồn tại trước và độc lập với tiền tệ. (Và để hiểu được giá trị hàng hóa trong mô hình của Smith chúng ta cần phải hiểu thêm về giá thực tế và giá thị trường của hàng hóa nữa).
Trong khi đó Harari lại có một góc nhìn khác, ông cho rằng tiền chỉ là một hệ thống dựa trên niềm tin, hay cái gì được coi là tiền và cái gì không chỉ là kết quả của những lựa chọn mà chúng ta đưa ra. Giá trị không phải là đặc tính nội tại của hàng hóa.
Dẫu sao thì tiền tệ cũng là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của lịch sử phát triển nhân loại. Hành trình này bắt đầu như một giải pháp thực tiễn cho một vấn đề hậu cần mà Adam Smith đã xác định một cách rõ ràng, sự kém hiệu quả của việc trao đổi trực tiếp trong một xã hội ngày càng chuyên môn hóa. Tuy nhiên, giải pháp này chỉ có thể thành công nhờ vào một cuộc cách mạng nhận thức phi thường. Như Harari đã chỉ ra, con người đã học cách đặt niềm tin vào những biểu tượng trừu tượng, xây dựng nên một hệ thống tin tưởng phổ quát có thể kết nối những người hoàn toàn xa lạ. Cuối cùng, cho chúng ta thấy rằng lịch sử của niềm tin này không phải là một con đường thẳng tắp, mà là một chuỗi các lựa chọn và hư cấu xã hội, những câu chuyện được chấp nhận rộng rãi vì tính hữu ích của chúng trong việc tổ chức xã hội và thúc đẩy hợp tác.
-Nguyễn Đức Thịnh-