Lịch sử chữ quốc ngữ (1615-1919)

2 Đặt hàng
“Lịch sử chữ quốc ngữ, 1615-1919” là tác phẩm có tầm vóc và bề thế nhất từ trước đến nay dựa trên nguồn tư liệu phong phú về lịch sử hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ, mà bất cứ người Việt Nam nào cũng nên đọc để hiểu về nguồn cội chữ viết mà chúng ta đang dùng hằng ngày.
#
Còn hàng
268,000 

Mô tả

THÔNG TIN XUẤT BẢN

ISBN: 978-604-477-962-1 Giá bìa:  268.000đ
Barcode: 8935270704544 Trọng lượng: 800g
Số trang: 432 NXB: Văn học
Khổ: 16x24cm Năm XB: 2024
Loại bìa bìa mềm, tay gấp In ấn đặc biệt 

NỘI DUNG CHÍNH

“Lịch sử chữ quốc ngữ, 1615-1919” là tác phẩm có tầm vóc và bề thế nhất từ trước đến nay dựa trên nguồn tư liệu phong phú về lịch sử hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ, mà bất cứ người Việt Nam nào cũng nên đọc để hiểu về nguồn cội chữ viết mà chúng ta đang dùng hằng ngày.

Tác phẩm này được phát triển từ chính luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Thị Kiều Ly, bảo vệ năm 2018 tại Đại học Sorbonne Nouvelle (Cộng hòa Pháp) và được trao giải thưởng luận án xuất sắc năm 2020 của GIS Asie (Groupement d’intérêt scientifique Études asiatiques – Nhóm nghiên cứu khoa học về châu Á).

Sau khi bảo vệ, tác giả đã tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung luận án và xuất bản ở Pháp năm 2022 dưới tựa đề “Histoire de l’écriture romanisée du vietnamien (1615-1919)” (Lịch sử chữ quốc ngữ, 1615-1919”). Với tâm niệm cần phổ biến kiến thức khoa học tới đại chúng, năm 2023, cô cũng đã cùng họa sĩ Tạ Huy Long xuất bản cuốn truyện tranh về lịch sử chữ quốc ngữ dành cho trẻ em. Và năm 2024, đúng dịp kỉ niệm 400 năm giáo sĩ Alexandre de Rhodes và Maiorica đến Việt Nam, ấn bản tiếng Việt của công trình “Lịch sử chữ quốc ngữ, 1615-1919” chính thức được xuất bản. 

Kế thừa và tiếp bước các thế hệ học giả tiền bối, tác giả đã dày công trang bị kiến thức về tiếng La-tinh, tiếng Bồ Đào Nha và về cổ văn châu Âu để có thể tiếp cận, sưu tầm và phân tích các văn bản được viết bằng tiếng La-tinh, Bồ Đào Nha, Ý nằm rải rác ở văn khố ở Roma, Paris, Lisbon, Ávila, và Madrid. Như cô đã từng chia sẻ với báo Người Đô Thị: “Tôi đã trải qua hầu hết những cung bậc cảm xúc của một người học trở thành nhà nghiên cứu chuyên nghiệp: hạnh phúc vì tìm được tài liệu, căng thẳng, lo âu dò dẫm tìm đường đi cho công trình của mình, mất ngủ. Hàng ngày mình đối mặt với chiếc máy tính của mình và các văn bản viết tay. Nhưng trên tất cả, tôi đã sống những năm tháng hạnh phúc cùng đề tài mình đam mê, sống trong tình bạn nghiên cứu ở khu Sorbonne, hay những trải nghiệm tuyệt vời khi đi tìm tài liệu ở các khu lưu trữ ở Roma (Vatican), Lisboa (Bồ Đào Nha), Madrid, Avila (Tây Ban Nha)”. 

Có thể nói, đây là một thành tựu nghiên cứu đầy đủ nhất từ trước cho đến nay về lịch sử chữ quốc ngữ, với khung thời gian trải dài hơn 300 năm, từ năm 1615 – thời điểm các giáo sĩ dòng Tên tới truyền giáo ở Đàng Trong và kết thúc vào năm 1919 – năm cuối cùng của khoa thi Hội tổ chức ở kinh đô Huế. 

Một số đóng góp quan trọng và mới của công trình này: 

– Công trình này đặt sự sáng tạo ra chữ quốc ngữ trong bối cảnh chung của ngữ học truyền giáo trên toàn thế giới thay vì chỉ liên hệ với quá trình văn tự La-tinh hóa tiếng Nhật và tiếng Trung như các công trình trước đó. 

Phục dựng lại được khá chi tiết thời kỳ đầu tạo ra chữ quốc ngữ nhờ việc sưu tầm và phân tích một số lượng lớn các văn bản viết tay. 

Chỉ ra được những mốc thời gian quan trọng như chữ La-tinh đầu tiên xuất hiện trong văn bản năm 1617, hay “hội nghị” đầu tiên về chữ Quốc ngữ của các Thừa sai ở Macao (Trung Quốc) năm 1630 hay khi Gaspar do Amaral soạn từ vựng năm 1634. 

Nhấn mạnh vai trò của António de Fontes, linh mục người Bồ Đào Nha đến Đàng Trong năm 1624, ông là cầu nối của chữ quốc ngữ từ Đàng Trong ra Đàng Ngoài.

Chỉ ra sự thay đổi vai trò của chữ quốc ngữ: từ một công cụ học tiếng của các thừa sai người nước ngoài sang công cụ trao đổi thông tin giữa các giáo sĩ người nước ngoài và linh mục, giáo dân người Việt sau khuyến nghị của Giám mục Deydier năm 1685. 

Chỉ ra vai trò của các chủng sinh người Việt trong công cuộc soạn từ điển Việt – La năm 1772-1773. Chúng ta thường gán tác giả cho cuốn từ điển này là Pigneaux de Béhaine, nhưng thực tế đó là tư duy làm từ điển của người bản xứ…

Ngoài ra, dù cho sự hình thành chữ quốc ngữ nằm trong trào lưu chung của ngữ học truyền giáo, nhưng việc chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của Việt Nam là một trường hợp đặc biệt ở Đông Á, nên không thể thoát khỏi những tác động của bối cảnh chính trị, xã hội. Vì vậy, bên cạnh việc đúc kết lịch sử chữ viết trong quãng thời gian gần 300 năm, tác giả Phạm Thị Kiều Ly còn lồng vào đó những câu chuyện không kém phần quan trọng là lịch sử truyền giáo, lịch sử – chính trị Việt Nam từ phong kiến tới thời thuộc địa và bảo hộ, và phần nào đó là những câu chuyện về lịch sử báo chí, văn hóa, giáo dục ở Việt Nam một thời đoạn.

Như GS Dan Savatovsky – Viện Nghiên cứu Lịch sử các lý thuyết ngôn ngữ, Đại học Sorbonne Nouvelle, chia sẻ: “Cuốn sách không chỉ tập trung vào lịch sử ngôn ngữ – chính xác hơn là tập trung vào khía cạnh ngữ học truyền giáo tại châu Á như Otto Zwartjes và những người khác quan niệm – và cuốn sách này còn đề cập đến các liên kết mà lịch sử nội tại của Việt ngữ (mô hình ngữ pháp hóa) gắn với lịch sử chính trị và văn hóa của đất nước (lịch sử khách quan của nó). Tác phẩm còn cho thấy mối quan tâm sâu sắc đối với lịch sử của chính ngôn ngữ, đối với lịch sử âm vị học của tiếng Việt. Và ở đây, bên cạnh những phẩm chất của một nhà sử học nghiên cứu ngôn ngữ, Phạm Thị Kiều Ly cũng chứng tỏ những phẩm chất không thể phủ nhận của một nhà ngôn ngữ học…”.

Ý NGHĨA BÌA SÁCH: Hình ảnh minh hoạ những cá nhân đã có những đóng góp quan trọng vào quá trình hình thành và phát triển chữ quốc ngữ trong giai đoạn từ 1615 đến 1919. 

Hàng trên là các thừa sai Dòng Tên: Cristoforo Borri, Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes, António de Fontes, Gaspar do Amaral, António Barbosa.

Hàng dưới là: François Deydier, Pierre Pigneaux de Béhaine, Philipphê Bỉnh, Jean-Louis Taberd, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh.

NỘI DUNG CHÍNH CỦA TÁC PHẨM:

Chương 1: Quá trình mô tả các ngôn ngữ trên thế giới

Chương 2: Phiên âm tiếng Đàng Trong bằng chữ La-tinh (1615-1631)

Chương 3: Phiên âm tiếng Đàng Ngoài bằng chữ La-tinh

Chương 4: Hệ thống nguyên âm trong Dictionarium (Từ điển) của de Rhodes (1651) và chuẩn hóa chính tả

Chương 5: Chữ quốc ngữ thời kỳ Hội Thừa sai Paris (1658-1858)

Chương 6: Chữ quốc ngữ thời thuộc địa

Với cách viết như kể chuyện lịch sử lồng những phân tích ngôn ngữ chắc chắn cuốn sách “Lịch sử chữ quốc ngữ, 1615-1919” sẽ giúp cho mỗi người Việt Nam dễ dàng nắm bắt và hiểu hơn về nguồn cội chữ viết mình đang sử dụng hằng ngày.

Nhân dịp này, nhà nghiên cứu Phạm Thị Kiều Ly và Omega+ cũng ra mắt đồng thời tác phẩm “100 câu hỏi về lịch sử chữ quốc ngữ” như một cách tiếp cận khác về chữ quốc ngữ dưới dạng hỏi đáp. Đôi khi trong chúng ta có ai tò mò về chữ quốc ngữ, dù cho ta không có thời gian đọc cả một cuốn sách, nhỡ đâu ta có thể tìm thấy câu trả lời trong cuốn sách này. 

Tác giả cố gắng đặt mình vào vị trí của độc giả và của người Việt Nam nói chung, để tự vấn mình những vấn đề xoay quanh lịch sử chữ viết mà chúng ta dùng hằng ngày: hoàn cảnh ra đời, quá trình hình thành, phát triển, cũng như những nhân vật có nhiều đóng góp quan trọng chữ quốc ngữ. Độc giả cũng có thể tìm thấy trong cuốn sách này những giải thích về logic chính tả của chữ quốc ngữ và cả những biến chuyển lớn lao trong đời sống xã hội, văn hóa – giáo dục…

Các tác phẩm thuộc Tủ sách “Hiểu Việt Nam qua các tư liệu Pháp ngữ” từ các tác giả Việt Nam đương đại.

THÔNG TIN TÁC GIẢ:

Phạm Thị Kiều Ly

Giảng viên Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật – Đại học Quốc gia Hà Nội.

Thành viên Viện Nghiên cứu Lịch sử các lý thuyết ngôn ngữ – Trung tâm nghiên cứu khoa học Quốc gia Pháp.

Lĩnh vực nghiên cứu chính: Lịch sử chữ quốc ngữ; lịch sử chữ viết hệ La-tinh của ngôn ngữ của các dân tộc tại Việt Nam; di sản ngôn ngữ và tư liệu; ngữ học truyền giáo tại châu Á. 

Phạm Thị Kiều Ly bảo vệ luận án Tiến sĩ tại Đại học Sorbonne Nouvelle (Pháp) năm 2018, cô chuyên nghiên cứu về lịch sử chữ quốc ngữ và lịch sử ngữ pháp tiếng Việt. Cô quan tâm nghiên cứu lịch sử chữ viết của các dân tộc thiểu số cũng như di sản ngôn ngữ của các dân tộc đang có nguy cơ biến mất. 

Ngoài việc chuyên tâm đi sưu tầm tư liệu về Việt Nam tại châu Âu, Phạm Thị Kiều Ly cũng rất quan tâm đến việc phổ biến kiến thức khoa học tới đại chúng bên cạnh việc xuất bản các công trình nghiên cứu chuyên khảo trên các tạp chí quốc tế và trong nước. 

Phạm Thị Kiều Ly là tác giả, đồng tác giả của 3 tác phẩm:

Phạm Thị Kiều Ly. 2024 (sắp xuất bản). 100 câu hỏi về lịch sử chữ quốc ngữ. Hà Nội: Omega+ và Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 

Phạm Thị Kiều Ly & Tạ Huy Long. 2023. Người Việt gọi tôi là Cha Đắc LộHành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ. Hà Nội: Nhà xuất bản Kim Đồng. 

Phạm Thị Kiều Ly. 2022. Histoire de l’écriture romanisée du vietnamien (1615-1919). Paris: Les Indes Savantes. 

Cô cũng đồng thời là đồng chủ biên của tác phẩm: 

Dan Savatovsky, Mariangela Albano, Thi Kieu Ly Pham, Valérie Spaëth (dir). 2023.  Language Learning and Teaching in Missionary and Colonial Contexts. Amsterdam: Amsterdam University Press.

TRÍCH ĐOẠN/ CÂU QUOTE HAY 

  • “Léopold Cadière coi thủ bản của Cha Gaspar Luís đề ngày 17 tháng 12 năm 1621 là văn bản cổ nhất liên quan đến truyền giáo ở Đàng Trong. Đỗ Quang Chính cũng đặt ra mốc 1621 này nhưng ông lại đề cập đến báo cáo của João Roiz, viết cùng năm đó. Chính vì vậy mà Nguyễn Khắc Xuyên gán cho năm 1621 là khởi điểm của công cuộc văn tự La-tinh hóa tiếng Việt. Đối với ba tác giả trên, sự xuất hiện của những chữ viết bằng ký tự La-tinh đầu tiên là lý do để họ chọn mốc khởi đầu này.
    Trên thực tế, những thông tin đầu tiên về việc truyền giáo ở Đàng Trong đã có từ năm 1616 và chính trong một báo cáo khuyết danh viết vào năm 1617 đã xuất hiện một vài ký tự đầu tiên ghi tiếng Việt bằng chữ La-tinh.”

(Trích Chương 2: Phiên âm tiếng Đàng Trong bằng chữ La-tinh (1615-1631), tr. 88-89)

  • Thủ bản năm 1631 chứng tỏ rằng António de Fontes đã mở một chương mới trong lịch sử văn tự La-tinh hóa tiếng Việt, và đã làm thay đổi quan điểm vốn tồn tại đến ngày nay về vai trò của Gaspar do Amaral như Đỗ Quang Chính (2008 [1972]) và Roland Jacques (2002 [1998]) quả quyết : xét trên rất nhiều khía cạnh, Fontes là tiền bối của Amaral.  

(Trích Chương 3: Phiên âm tiếng Đàng Ngoài bằng chữ La-tinh, tr. 137-138)

  • Cần phải đánh giá giá trị công trình ngôn ngữ của các giáo sĩ ở Việt Nam đồng thời phải tránh nhưng phóng chiếu hồi cứu có nguy cơ sai lệch niên đại. Vì lẽ đó, chúng ta không thể phủ nhận đóng góp của Alexandre de Rhodes trong việc biên soạn văn bản Macao năm 1632, một văn bản mà chắc chắn ông đã đóng góp một cách xuất sắc nhờ kiến thức ngôn ngữ của mình, dù rằng ông đã không sáng tạo ra tất cả dấu thanh thích hợp để ghi chuẩn xác các thanh điệu của tiếng Việt.

(Trích Chương 3: Phiên âm tiếng Đàng Ngoài bằng chữ La-tinh, tr. 143)

  • Sự thiếu vắng văn phạm trong từ điển, như Alexandre de Rhodes và các anh em đồng tu đã biên soạn và thừa hưởng một hình mẫu [ ngữ pháp La-tinh] dành cho tiếng Việt, cho thấy công trình từ điển song ngữ mang tên Pigneaux de Béhaine thực chất được tiến hành bởi các chủng sinh và linh mục Đàng Trong. 

(Trích chương 5: Chữ quốc ngữ thời kỳ Hội Thừa sai Paris (1658-1858), tr. 283)

  • Thành công của chữ quốc ngữ là chưa từng có trong khu vực chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, trên thực tế nó là thành quả của hai ý chí song song : ý chí của tầng lớp thực dân Pháp muốn học tiếng Việt dễ hơn và muốn xích hai nền văn hóa Việt-Pháp lại gần với nhau, và ý chí của tầng lớp sĩ phu Việt Nam, coi chữ quốc ngữ là một công cụ đấu tranh chống nạn mù chữ và phổ biến khả năng đọc viết (mà ngày nay chúng ta gọi là văn hiến).

(Trích Phần Kết, tr. 360-361)

Từ khóa

Top